Tềt Nhâm tuất đầu năm 1982, tỉnh Thuận Hải gửi quà cho các chiến sĩ đòan 5504, Tỉnh đội Thuận Hải, trong đó có bánh kẹo, nước mắm và thư của học sinh trung học gửi các chiến sĩ nơi xa. Do đường giao thông bị tắc cuối mùa khô phải gửi lại tại đơn vị K22. Ở đây, có lẽ mùi nước mắm xứ Phan quá thơm, cám dỗ đám lính rừng nên đêm nào đi tuần tra cũng thấy có dấu hiệu rò rỉ, và những lá thư dần dần được bóc tem, được giới thiệu rộng rãi trong đơn vị. Một số đã lấy địa chỉ ghi trong thư để viết “thư tọa độ” trong đó có MTL. PH đã viết cho L nhưng chỉ được 2 lá thì bí vì cô bạn này thuộc lọai khá cứng.
Trong lúc rỗi rãnh và quá buồn sau chuyến về phép, mình cũng viết vài cái cho bạn học cũ ,vài cái gửi “tọa độ” để rồi chờ sốt ruột chẳng thấy gì. Có lẽ hơn nửa số ấy là địa chỉ ma, phần còn lại rơi rớt dọc đường hoặc đến tay người nhận vào thời điểm nóng quá nên cũng cháy tiêu luôn. Đêm 12 tháng 11 năm 1982 mình đã thay PH viết cho MTL và mở đường cho nhữnh cánh thư StưngTreng-Phan Thiết. Cũng từ đó thư từ với L là niềm vui, nỗi nhớ, là những ngày ”bốc, hăng” trong công tác,là những phút lặng yên suy tư bên ngọn đèn con heo hắt giữa rừng K. Tình bạn là viên ngọc quí của cuộc đời, nó càng quí vô cùng với người lính xa nhà, sống quạnh hiu nơi đất bạn, trong cái xó rừng mà không ngôn từ nào thân thiết ngòai tiếng thì thầm muôn thuở của lá rừng, của chim hoang dại, tiếng hú của vượn, tiếng rúc của lòai cú và những bản nhạc buồn của lòai giun dế. Ngòai đồng chí, đồng đội ra có lẽ chỉ có những ngôi sao nhấp nháy suốt đêm thâu làm bạn mà thôi.
Ban đầu mình nghĩ: L có lẽ là một cô gái con nhà khá giả,có học, hơi kiêu, bứơng và lý sự một cây. Có thể trời phú cho một hình dáng đẹp, một giọng hát hay hoặc một cái gì đó để mà tự hào chư ! Thực tình mình thích cái khỏan” bướng, lý sự “ ấy, mình đã viết thư cho L chỉ vì chừng đó thôi và hy vọng sẽ tiếp tục được lâu dài cho đến khi mình giả từ đất nước rừng rú này. 9 tháng 12 năm 1982 mình nhận được lá thư đầu tiên của L và “một chú nai tơ trèo đèo vượt núi lên với L đó, hãy thương nó nhe ”. Cô bạn xứ Phan đã làm mình ngạc nhiên và vui sướng vì ngay lá thư đầu tiên bạn đã tặng mình một sản phẩm đầu tay của bạn: con nai kết bằng lá buông và những lời tâm sự chân thành.
Bấy giờ thì bức phác họa về chân dung của L đã đổi thay nhiều. Cái nét “hơi kiêu” đã mất hẳn, đường vẽ “bướng” cũng nhạt nhòa, còn cái nền” lý sự một cây” được thay bằng “văn hay,chân thành, lôi cuốn”. Những lá thư vẫn tiếp tục đi về, tình bạn càng thêm gắn bó. Bao nhiêu giả thuyết về” người bạn không chân dung” được xây dựng rồi đổ vỡ nhanh chóng và càng ngày mình càng hiểu hơn :“Rừng Campuchia vẫn xanh như L chờ thư L, biển Phan Thiết vẫn trong như tình bạn L dành cho L”. Đúng vậy đó L ơi ! Bạn đã dành cho mình tất cả sự chân thành, trong sáng của tình bạn, đã tâm sự với mình tất cả những vui buồn, va vấp, những biến đổi trong cuộc sống tình cảm, những uẩn khúc của gia đình L, với mình hình như bạn không giấu gì cả… Còn mình chỉ có chờ thư, đọc, trả lời, thỉnh thỏang gửi cho bạn vài mẫu hoa, lá lạ của rừng K nhưng nói chung tất cả chỉ gói gọn trong vòng” thư tọa độ “.Có lẽ công tác của một chủ nhiệm quân y đơn vị độc lập đã làm mình mệt nhòai, đầu óc không còn đằm thắm, thanh thản được nữa, chính vì vậy mà tình cảm dành cho “cô bạn xứ Phan” đôi lúc bùng cháy mãnh liệt, thôi thúc, dồn dập như những triệu chứng của một cơn sốt rét ác tính đôi lúc cứ rề rề như cơn mỏi mệt sau đợt cúm. Tất cả những vui buồn, giận dỗi của L ngày càng đi sâu vào cuộc sống nội tâm của mình. No không còn trừu tượng nữa mà cụ thể hóa dần dần. Với mình nó có thể là một làn gió mát, giữa đêm hè oi bức văng vẳng tiếng tắc kè kêu giữa rừng K. Nó là một thóang mây trôi trong ngày đỏ lửa, là cơn mưa bao ao ước giữa mùa khô. Cũng có khi là một vết cắt trên da, một vết thương không thể lành trong tâm khảm. Cuộc sống của người lính rừng xa giống như một chiếc cối đá. Sau những ngày tất bật, gian khổ, chết chóc, những đêm dài hành quân truy quét, những niềm vui nho nhỏ lại trở về với nổi buồn, nhớ không nguôi. Tình bạn phương xa đã nhiều lúc làm nhạt nhòa cái vòng quay buồn tẻ đó, giúp mình một nghị lực, một niềm an ủi để vượt qua bao trở ngại, thử thách phía trước.
Tháng 5 năm 1983, L đã dành cho mình biết bao hạnh phúc với 3 lá thư trong một tháng và 1 tấm hình của MTL: “Lúc tròn 20 tuổi 20/2/1983. Chúc mừng sinh nhật L 23/5”. L đã làm mình bỏ ăn mấy bửa cơm liền, làm việc với sự hăng say đặc biệt và giấc ngủ mỗi đêm dường như ngắn lại với bao mộng mị. Mình càng nung nấu ý định sẽ tìm đến thăm L lúc về lại VN, dù lúc đó L không còn là L của ngày trước, dù bạn có tiếp đón mình với sự dửng dưng, dù mình trở về với trái tim tan nát, mình vẫn đến. Không phải vì L đẹp, L dễ thương…làm mình phải cất công “ mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua mà chỉ vì bạn có một tâm hồn trong sáng quá, biết cảm thông với những vui buồn của người lính rừng xa và bạn đã chân tình với mình ngay từ lúc ban sơ. Mình đã viết cho L ý định đó và cả những suy nghĩ đang thôi thúc mình thực hiện. Đáng tiếc, một chút hiểu lầm và thời gian đi về của mỗi cánh thư lại quá lâu ( gần 60 ngày ) đã làm tình bạn chúng mình rạn nứt , có khi đành phải chấm dứt. “ Tình bạn như ngọn lủa hồng trong không gian giá rét, nếu ta không biết nhen nhóm thì nó sẽ lụi tàn để lòng ta lạnh lẽo cô đơn.” Phải chăng mình không biết nhen nhóm ? Hay mình đã chọn lầm bạn như L viết ? Có thể do 2 quan điểm sống khác biệt nhau chăng ? Không đâu L ơi chỉ vì chúng ta quá xa nhau về không gian và hòan cảnh sống cũng cách biệt quá. Cho nên một hiểu lầm nho nhỏ sau cả tháng đợi chờ sẽ trở thành sự kết thúc đớn đau.
16 tháng 8 năm 1983, rất đau lòng khi viết cho L những lời tạm biệt. Chắc L sẽ buồn nhiều khi nhận được thư. Dẫu sao “ cắt đứt với dĩ vãng là điều vô cùng khó khăn và đau khổ” L nhỉ. Không trách L đâu nhưng mình chẳng lòng nào nghĩ đến ngày mai, mình vẫn mong rằng sau những giận hờn, trách mong, hiểu lầm, tình bạn sẽ vững bền hơn. Mới quen nhau chưa tròn một năm phải không L. Với bạn 12 tháng có lẻ ngắn ngủi và chóng vánh, vài cơn mưa dịu mát lòng người, vài tháng nắng nhuộm hồng hàng phượng, ve kêu gọi mùa thi, rồi một cái tết thế là hết năm. Còn mình 365 ngày dài đăng đẳng, đôi lúc nó vùn vụt trôi qua theo những niềm vui, những trang thư. Thường thì nó uể ỏi kéo rê trong nổi nhớ, trong những chiều buồn, những đêm vắng nóng bức ,ngột ngạt và sâu thẳm, với tiếng tắc kè kêu giữa rừng K. Một năm của mình sẽ ngắn ngủi hơn nếu tình bạn chúng mình ngày càng phát triễn và sẽ dài vô tận khi mình đọc lên những lời cuối cùng của L. Nổi buồn sẽ bắt đầu trĩu nặng trong lòng mình, những đêm cô đơn dài nhung nhớ cũng sẽ bắt đầu khi mình cầm bút viết cho L lời tạm biệt. Thế là hết, rừng K vẫn xanh nhưng mình không còn chờ thư nữa. Biển PT vẫn trong nhưng chẳng phải dành cho NL nữa đâu L nhỉ. Mình như kẻ mất hồn, vẫn sống , làm việc, cười đùa với bạn bè, đồng đội. Nào ai biết đâu đó là tất cả những cố gắng, nổ lực che lấp một vết thương lòng…Nhưng rồi L vẫn viết thư cho mình, những dòng chữ thân quen như nhảy múa trước mắt, không gian òa vỡ theo bao tâm sự thầm kín của L, chuyện tình yêu, ước mơ, quan niệm về hạnh phúc…chân thật và buồn. Chắc tại “ trời thì không nắng cũng không mưa, chỉ hiu hiu lạnh cho vừa nhớ nhung “ nên L nhớ nhiều về người bạn ở K và ngỡ rằng “…chắc với NL hôm nay PT cũng chẳng còn gì để đáng nói, đáng nhớ hết…hết thấy cần thiết có thư của nhau để giải sầu rồi phải không NL ? “ Dễ gì quên được L ơi ! Mình không viết cho L nữa vì nghĩ rằng chỉ làm bạn buồn hơn, vướng víu làm chi một tình bạn cỏn con, mong manh như khói lam chiều và xa vời như ảo mộng. Hãy để cho nó chìm vào lãng quên, vùi trong lòng đất ẳm như lá rừng K, tan vỡ như bọt sóng biển PT đi L.L có nhớ đã viết cho mình “chuyện chiến tranh, chuyện rừng biên giới là của cánh đàn ông, còn con gái bọn mình thường chỉ biết có xa hoa và không chờ đợi đâu NL “
Không biết có phải ở hiền gặp lành hay không, đúng lúc đã rã rời thân thể, tâm hồn cũng tan nát tả tơi, tôi nhận được quyết định chuyển về đòan 556 để giải quyết ra quân. Suốt cả tuần lễ chạy ngược xuôi, từ K lên cục (cục HC bộ tư lệnh tiền phương QK5) rồi lại vào viện Quân Y 21, đơn vị chủ quản của trường Quân Y, để năn nỉ, mồi chài, hứa hẹn tìm cho bằng được một chú quân y mới, về nhận bàn giao cho mình. Lại đi tìm xe về nước, khó khăn chồng chất ngày về, nếu không lẹ có khi vào mùa chiến dịch lại lên đường, rồi làm bạn với giun dế ở rừng K như bao người khác. May thay có chiếc xe GMC xì tech 40 feets vừa trả hàng xong sắp quay về VN, tôi phải hối lộ đám lái xe con dao găm 5 tác dụng mới cáu của Tiệp, họ cho tôi leo lên nằm trên nóc tech, mệt mỏi thì leo xuống bám khung gương chiếu hậu của xe. Cứ thể tôi lắc lư suốt 3 ngày đêm về đến Pleiku một xế chiều đông. Đói, lạnh tôi lại vác balô, chòang tấm nilon chạy xuống, chạy lên những con đường của phố núi để khỏi bị cóng ,mà “ ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông”. Gặp thêm 3 “đồng chí” cựu binh nữa, thế là 4 thằng chồm hổm, chụm mặt vào nhau, trùm tấm nilon ngồi giữa phố núi chịu đựng cái lạnh buốt xương cho đến sáng hôm sau. Vào bến xe Pleiku, nhìn những bộ quân phục đầy bụi đường và những khuôn mặt hốc hác, người ta nhanh chóng bán vé mà chẳng phải xếp hàng rồng rắn như thiên hạ. Lại nhồi nhét trên xe đò 1 ngày nữa mới đến Đà Nẵng. 2g10ph sáng 20/12/1983, trở về nhà sau 3 năm xa cách, tôi được đón tiếp thật nồng hậu bằng những tiếng la thất thanh, tiếng đập chân phành phạch vào giường, vào tường của chị H, của chú em út, ai cũng ngỡ tôi là trộm nhập nha.
Về nhà chưa nóng chổ, tôi lại vác balô lên đường vào Sài Gòn, nói dối là vào thăm bà con bên ngọai lâu nay chưa hề tới, thực ra tôi vào đó để đi Phan Thiết, gặp cho được cô bạn của những năm tháng ở rừng K. Vào SG tìm được nhà dì T ở Bảy Hiền rồi lại hấp tấp ra bến xe đi PT. Một buổi chiều đầu xuân,11/1/1984, tôi bước chân xuống bến xe PT, cầm cái balô thấy nhẹ tênh, lật ra sau thấy bị rạch một đường, bộ quân phục đem theo lòi cả ra ngòai, mất ít tiền còm và mấy cuốn sổ tay, có lẽ bị dân bụi ở SG chôm rồi. Tôi lặng lẽ lội bộ dọc ngang cho biết xứ sở nước mắm này, đi đâu cũng ngửi thấy mùi của nó, cái mùi đã mai mối cho tình bạn chúng tôi. Tôi tìm đến một cửa hàng quốc doanh để giải quyết cái dạ dày, nhân tiện chỉnh đốn trang phục chuẩn bị gặp nàng. Thấy tôi bước vào xếp hàng mua vé phần ăn, một cô bé tuổi đôi mươi cười hồn nhiên, nắm tay tôi chỉ vào một bàn trống:
- “Anh bộ đội khỏi xếp hàng, kêu em lấy cho rồi tính tiền”.
Nhìn lên bảng giá tôi chỉ dám mua 2 cái bánh cam chiên và một ly đá chanh. Cố để mắt tìm tôi cũng chẳng tài nào thấy phòng vệ sinh, lại rụt rè hỏi thăm. Một cô gái khác nhìn tôi và cười như thân nhau tự bao giờ :
-” Không có đâu anh ơi “. Tôi nhìn vào ly đá chanh :
-“Cho anh xin ít đá được không ?”
-“Được thôi anh bộ đội ơi “ Trời ạ! con gái PT sao dễ thương rứa !
An uống xong tôi bọc hết nước đá lại, ra đường tìm chổ vắng rửa mặt mũi, hai tay bằng những cục đá ấy.
Nhà L ở số 22, đường N.Ô, gần cầu THĐ. Tôi hỏi thăm những cô gái dọc đường ( chỉ hỏi con gái thôi, biết đâu gặp chính nàng hay bạn bè của nàng ) cầu THĐ đây rồi, rất giống với những gì L viết cho mình : hai bên là những dẫy tàu đánh cá xếp hàng, xa xa những ngôi nhà thấp, dài với những chiếc chum lớn làm nước mắm . Cạnh chân cầu là hợp tác xã QC, nơi L đã làm con nai tơ bằng lá buông gửi tặng mình đây. Tôi hồi hộp đi qua, nhìn vào xem thấy tòan là con gái, em nào cũng có nụ cười hớp mất hồn tôi. Tôi dừng lại trước căn nhà số 22, đóng cửa. Bên cạnh là một ngôi nhà dài và sâu hút, xếp đầy những cái chum thành nhiều dẫy, một phụ nữ chừng hơn 40 dáng khắc khổ, cam chịu đứng lặng lẽ bên cửa, nghe tôi hỏi MTL, dì ấy nhìn tôi, ánh mắt thật dịu dàng :
-“L đi làm ở tỉnh đòan chưa về, khỏang 4g30 con quay lại nhé ! Hay ở đây chờ đi “.Tôi cảm ơn dì và hẹn lát nữa đến. Tôi lại lang thang trên phố nhỏ xứ Phan, hỏi đường đến tỉnh đòan. Cũng chẳng bao xa vì PT nhỏ bé, đâu bằng ĐN. Tôi đứng ngòai hàng rào sân tỉnh đòan, nhìn vào trong thấy mấy cô gái đang chơi cầu lông, tôi cứ mong L đâu đây. L ơi bạn có biết mình đang nôn nao, hồi hộp chờ từng chút thời gian trôi đi hờ hửng.
Đúng 4g30 chiều, tôi dừng chân trước căn nhà đầy quyến rũ ấy: 22 đường NÔ. Cửa mở nhưng chẳng thấy ai, tôi run run chậm rãi bước vào định lên tiếng hỏi thăm bỗng …Nàng thanh thóat đi ra từ khỏang tối bên trong nhà, đầu hơi cúi tóc xõa ngang vai, khuôn mặt bầu bầu vẽ dỗi hờn, đôi môi hình cánh cung, nét mầy cong lượn trên đôi mắt to, đen thân thương mà bao năm dài trong rừng K xanh thẳm tôi chẳng thể nào quên. Tôi đứng lặng nhìn nàng cứ như trời trồng. Nàng bàng hòang nhận ra một anh bộ đội trong sân nhà, đang “nghía” nàng
-“ Có phải L không ?” tôi cố giữ để giọng khỏi run
-“ Còn anh là…” NL đây, vừa từ K về. Tôi rút từ túi áo trước ngực chiếc bì thư cũ có tên hai đứa, bên trong là hình của L tặng tôi ngày ấy. ”Vào nhà đi anh”.
Hôm ấy bị cúp điện, trong nhà tối om, nàng đi thắp cây đèn dầu, tôi lại có dịp ngắm dáng nàng đi, đứng. Sâu bên trong là người phụ nữ tôi gặp lúc chiều đang thắp nhang, rồi đứng lặng lẽ rất lâu bên bàn thờ như đang khấn vái điều gì.
L quay ra ngồi đối diện vói tôi, ngọn đèn không đủ sáng để tôi có thể ngắm nàng thỏa thích, tâm trạng tôi lúc ấy thật khó tả, tràn ngập niềm vui, hạnh phúc, bồi hồi ôn lại kỷ niệm xưa, những dòng thư cũ. L hỏi thăm tôi chuyện gia đình, ba mẹ ngòai ĐN…tôi trả lời bâng quơ với một nụ cười thật thà ( có lẻ hơi ngô nghê ), mắt tôi không rời L.
-“ Sao anh không nói gì hết vậy ? “. Lại cười
-“ Mình viết cho nhau nhiều rồi, bây giờ mới gặp. Chẳng biết nói gì đây”
Không gian dường như chỉ còn một nửa, bởi nửa kia đang đọng lại giữa nàng và tôi. Nàng nhìn tôi, ái ngại , ngập ngừng
-“ Anh L nè, L rất xúc động khi gặp anh, ước gì mình có thời gian, nhưng lát nữa L phải đi họp ở tỉnh đòan. Anh có ai quen ở đây không ? “
-“Không …à mà có. Không sao đâu L cứ đi đi, mai mốt gặp lại mà! “
-“ Hay..tối quay lại ở nhà L, chỉ có hai mẹ con, mẹ tu tại gia tối đọc kinh đến khuya.”. Tôi đứng dậy giả từ, liếc nhìn đồng hồ treo trên tường, thấy nãy giờ gặp nhau chưa được nửa tiếng. Tôi lại lang thang, định ra bến xe ngồi chờ sáng nhưng ngại đám bụi đời lảng vãng. Bỗng trước mặt tôi ba cái bóng lù lù vác balô quen thuộc , ba chú lính từ đảo Phú Quí về tìm người quen nhưng chưa gặp, nghe đâu ở gần nhà thờ nào đó. Tôi nhập hội cùng đi tìm, PT chỉ có vài cái nhà thờ vậy mà không tìm được. Cuối cùng cả đám mệt quá, trải tấm nilon dưới gác chuông một nhà thờ nằm lăn ra định ngủ, đói,khát nước trằn trọc mãi, đã quá nửa đêm. Xa xa ngôi nhà nào đấy còn sáng ánh đèn, một chú lính cầm cái bình tong đi xin nước, bỗng nghe tiếng la to, rồi những bước chân dồn dập như rượt đuổi nhau chạy về phía bọn tôi, chưa kịp hiểu chuyện gì bọn tôi bị ba cô gái nắm tay, lôi balô, kéo tấm nilon dẫn đi. Oi ! chúa ơi ! Ngôi nhà sáng ánh đèn ấy là nơi bọn tôi tìm kiếm, đang bày ra đầy mâm cơm canh cá thịt, có cả chai rượu đế nữa mới đã chớ. Hôm ấy họ gã chồng cho con, còn dư thừa bao nhiêu đem hết ra cho mấy chú lính no nê một bữa. Chúng tôi quay lại gác chuông lăn ra đánh một giấc quên đời. Chuông nhà thờ đổ hồi, giục giã, lôi tôi dậy, tạm biệt PT với những cô gái mới gặp đã như thân quen, những con đường nồng nàn mùi nước mắm.
Tôi và L thỉnh thỏang gửi cho nhau lá thư nhưng lác đát như lá cuối thu, có lẽ vì cuộc sống bộn bề lo toan, khó nhọc. 20 tháng chạp tức ngày 10 tháng 1 năm 1985 nàng báo tin “Bây giờ em đã có chồng”. 30 tháng 4 năm 1985 lá thư có lẽ là cuối cùng từ L, buồn muốn khóc cả người viết lẫn người đọc “Chia tay NL là một mất mác lớn lao không gì bù đắp được trong đời L, nhưng cứ tiếp tục sẽ có lúc canh không lành, canh không ngọt trong gia đình và mình sẽ tự giằng vặt vì đã ngọai tình trong tư tưởng…(!)”. 22 tháng 1 năm 1987 đọc lại lần cuối cùng, để rồi không bao giờ đọc nữa: MTL người bạn phương xa, hành trang vô giá của đời tôi.