GIẢI MÃ
Ký ức tuổi thơ của tôi hình như chỉ
có chiến tranh, dù cuộc chiến thật sự xãy ra ở đâu đó xa lắc, xa lơ. Năm tôi 6
tuổi,1968. lần đầu tiên tôi biết thế nào là pháo kích thật sự. Thuở ấy, đêm
giao thừa không ai ngủ được. Trời se lạnh, đêm ba mươi tối đen như mực, bước ra
ngõ nhìn đâu cũng tối om, gần đến giờ giao thừa, nhà nhà bắt đầu đem bàn nhang
đèn, xôi chè ra sân, treo lên cành cây cao một dây pháo, có nhà chơi luôn vài
dây, dài cả chục thước, pháo Nam Ô nổi tiếng xưa nay.Những ngọn đèn cầy (nến ),
bắt đầu được đốt lên, ánh sánh lung linh, lắt lư, làng xóm ấm cúng, trang
nghiêm chào đón năm mới. Chú S trước nhà tôi, cầm ra một mớ pháo hiệu, cạy cái
đầu bịt chì vào hàng rào kẽm gai để tạo cái lỗ nhỏ, chú lấy mấy viên đạn lửa
cạy đầu, cắm dọc hàng rào, rồi lấy thêm mấy viên AR15, rút đầu đạn, rắc thuốc
súng lên trên. Xong đâu đấy chú cầm khẩu súng côn chĩa lên trời, anh D khom
khom, cầm que nhang chờ hiệu lệnh. Đúng giờ giao thừa, “”đùng ,đùng…”khẩu côn
nhả đạn, anh D chích que nhang vào mấy viên đạn , lửa phụt lên , sáng lóe, rồi
mấy quả pháo hiệu bục cháy phun khói màu xanh, đỏ, vàng, cam…rực rỡ một góc
xóm, trẻ con reo hò dù đã bị cấm, bị kiêng cữ đầu năm, đầu làng cuối xóm phụ
họa theo, châm pháo. “Tạch, tạch,tạch…đùng đùng…”tiếng nổ vang trời, pháo chen
chúc nhau cháy ,rơi xuống đất, nổ đùng, tung lên trời xác pháo đỏ âu, con chó
mực nhà tôi, chui xuống gầm giường rên hư hử.Nhìn lên bầu trời, đạn lửa xẹt qua
, xẹt lại dệt lưới. Tiếng nổ mỗi lúc một nhiều hơn, dồn dập hơn và lạ tai hơn,
nghe có cả tiếng rít xé gió. Dường như linh tính mách bảo, mẹ tôi vội thổi mấy
ngọn đèn cầy, rồi hối mấy con khiêng bàn vào nhà, tắt hết đèn. Tiếng rít xé tai
“”chiu,chiu…òanh, oành…”. ”Pháo kích rồi bây ơi, chui xuống hầm mau ! “
Hồi ấy nhà tôi vẫn còn là nhà
tranh, một gian dài, phía dưới che thêm ra làm bếp, hầm tránh pháo kích làm nửa
chìm, nửa nổi, phần nổi quay ra ngòai hiền, bên trên chất một lớp dầy bao cát
công sự, miệng hầm ngay trong nhà, gần bếp, mùi xôi, chè đậu xanh thơm phức
trên chiếc bàn cúng mới đem vào, tỏa hương , nhưng chẳng ai còn hồn vía nghĩ
đến chuyện ăn nữa. Tiếng đạn pháo gầm rú: “Ầm,ầm…chiu, chiu, ầm ầm…”đất trời
rung chuyển, nhà cửa lắc lư, mấy cây cột vặn mình răng rắc, bộ lư, chân đèn
bằng đồng trên mép bàn thờ, lảo đảo rồi rơi xuống lõang chỏang, ly chén va vào
nhau rơi vỡ, tạo nên thứ âm thanh hổn độn, kinh hòang…Con chó mực hết rên hư
hử, bỗng nó gầm gừ, bồn chồn, xa xa nghe tiềng chân chạy rầm rập… mẹ tôi thì
thào: ”Việt Cộng về bây ơi ! “. Đêm ba mươi tĩnh mịch, tối om đã vĩnh viễn ra
đi, đã bị xé tọat trong tiếng pháo, tiếng đạn ,hỏa tiễn vang rền, đã bùng cháy trong ánh chớp của
pháo, của các lọai đạn, của những đám lửa xa xa, trận pháo kích và tấn công kéo
dài đến gần sáng…
Mồng một tết làng xóm xôn xao, nhìn
nhau. Bước ra đường nhìn dọc , nhìn xuôi chỉ có vài cái nhà sụp mái hiên, xa xa
vẫn còn những đám cháy, tiếng nổ vẫn ì ầm, thỉnh thỏang vài tiếng “Ầm, ầm
“”rung chuyển đất trời, bà con lào xào bàn tán: hồi hôm Việt Cộng pháo kích sân
bay, đánh kho đạn An Đồn, kho đạn vẫn còn đang cháy. Trên trời mấy chiếc trực
thăng quầng đảo, có mấy chiếc trực thăng hai đầu, đeo tòn ten dưới bụng cái túi
lớn chứa nước chữa cháy, có chiếc phun bọt trắng xóa vào đám cháy, có chiếc
treo lơ lửng ngay trên nóc nhà tôi, làm mấy nhánh xòai gãy răng rắc, rơi ào ào
xuống sân. Bước xuống bờ sông , nhìn qua kia thấy Lãnh Sự Quán Mỹ vẫn còn
nguyên vẹn, nhưng chiếc tàu bệnh viện dã chiến, loang những vệt máu chảy dài từ
trên sân đáp trực thăng xuống hai bên thành tàu, màu đỏ của máu lem luốc bên
thành tàu trắng tóat, tạo cảm giác ghê ghê. Bước ra ngã năm, nơi giao nhau của
con đường dọc Ngô Quyền, nhánh ngang Nguyễn Công Trứ và một ngã rẽ vào tổng kho
An Đồn , gần đấy là chùa An Hải, nơi mẹ con tôi hay đi lễ chùa đầu năm, nay ồn
ào với lổn ngỗn những chiếc thiết giáp (M113 ), xa xa vài chiếc xe tăng (M41 )gầm
gừ, nghiến bánh xích xuống đường , khói đen vẫn còn bốc lên trời, kèm theo
tiếng nổ và những vệt lửa xẹt lên của đạn pháo trong kho đang cháy.Xa xa bên
kia sông là khói đen mù mịt của đám cháy ở sân bay Đà Nẵng.Năm ấy mẹ con tôi
không về quê nội ở Điện Ngọc được vì lính Mỹ đã chặn ngang đường ở sân bay Nước
Mặn.
Ra giêng, mẹ tôi bệnh nặng nằm liệt
giường, thầy Trí, một lương y quen biết, nhà ở dưới Mân Thái cứ phải chạy lên
chạy xuống bắt mạch bốc thuốc, ( thuốc Bắc, thuốc Nam ) cho mẹ, có lúc vài
tháng sau mới trả tiền. Mẹ nằm ở chái nhà , giáp với nhà ông ba M, giữa hai nhà
có một khỏang trống hẹp, bọn tôi hay bày trò chơi ở đó, hôm ấy, bày trò nấu ăn,
hốt nhúm gạo bỏ vào lon bơ, đổ nước, đặt lên mấy cục đá làm bếp, tôi lấy miếng
giấy cuộn lại vào nhà đốt lửa đem ra, bếp thì nhỏ, miếng giấy cháy bung ra cả bọn
quýnh quáng, vách nhà tôi bằng tranh còn vách bên kia bằng thùng thiếc, nên lửa
bắt cháy , cả bọn nhóc hốt hỏang, vừa khóc vừa la hét, lấy bìa cát tông quạt
cho tắt, lửa bùng mạnh cháy nhà tôi, hàng xóm chạy qua, người lôi đám nhóc chạy
ra khỏi hẽm hẹp, người xúm vào đạp cửa, khiêng mẹ tôi chạy ra ngòai, người bắt
thang leo lên nóc giật tranh cháy xuống, múc nước chuyền nhau dập lửa, may mà
nhà tôi có sẵn giếng nước, hàng xóm lẹ tay, nên chỉ cháy một góc nhà, hơn tháng
sau, mẹ khỏe lại xây nhà mới. Dân Đ.N xây nhà không dùng gạch ống, gạch thẻ như
bây giờ, mà xây nhà bằng ất lô, lọai gạch làm bằng cát hạt lớn trộn xi măng,
đúc thành từng viên có kích thước 10x20x30 cm, lọai này tuy nặng nề nhưng xây
nhà rất chắc chắn, nếu không bị sâp thì tường xây có thể chịu được tât cả các
lọai mảnh đạn. pháo…Ngày ấy xóm tôi rất nghèo, suốt con đường mòn chạy song
song với sông Hàn, từ bến phà lên đến chân cầu T.M.T, chẳng có mấy nhà xây. Cách nhà tôi một căn là ông bà Thông T, với nhà ngói to, cửa kiếng ,
đi lên xa nữa mới có căn nhà lầu của cô Bảy T. Cô Bảy này khá đặt biệt, cô đẹp
và sang, giàu nhất xóm, nghe đồn cô có những mối quan hệ phức tạp với các
thương gia, với đám sĩ quan C.H cao cấp và các giới chức chính quyền C.H ( sau
này tôi mới có điều kiện tìm hiểu để “giải mã hiện tượng cô Bảy”).
Nhà tôi đang xây vào mùa hè, tối
mấy anh em chia nhau ngủ nhờ hàng xóm, tôi và em út ngủ nhờ nhà ông bà Thông T,
đang đêm ngon giấc, bỗng “đùng, đùng..ầm,ầm…chíu chíu, rào rào”. Trời nóng ,anh
em tôi cỡi trần ngủ trên tấm phản lớn ( một lọai giường đơn giản làm bằng gỗ
dày và lớn ), bỗng đau nhói, hốt hỏang chồm dậy, khắp người đầy mảnh vụn, ngói
trên nóc nhà bị sức ép của pháo vỡ ào ạt, rơi xuống như mưa, kiếng cửa sổ cũng
vỡ toang, lỏang chỏang tung tóe trên nền gạch bông, hai anh em vội chui xuống
nấp dưới tấm phản, rồi những tiếng nổ dồn dập kinh hoàng, nhà cửa, đất trời
rung chuyển. Tiếng ông bà T.T:”Tụi bay mô rồi (đâu rồi), có răng không?(có bị
gì không ). V.C pháo kích đó” . Lần này chỉ có tiếng nổ của đạn pháo lớn chứ không nghe tiếng súng nhỏ.
Bầu trời đêm sáng lòe với những ánh chớp giật liên hồi, nhìn qua lỗ thủng trên
mái nhà thấy cả ánh sáng của hỏa châu ( pháo sáng ), tôi định dắt em chạy về
nhà xem mẹ có bị gì không, nhưng ông bà giữ lại đưa xuống hầm trú ẩn. Trận pháo
kích chỉ kéo dài hơn tiếng đồng hồ, rồi tiếng máy bay trực thăng, máy bay phản
lực u,u…gầm rú, trời rực sáng với ánh
hỏa châu. Hồi đó thấy hỏa châu là tụi tôi hay nhìn theo, có hai lọai: thứ bắn
từ ống phóng cầm tay mau tàn vì cái dù giữ pháo nhỏ xíu, nhưng lọai hỏa châu
bắn từ máy bay, là thứ bọn trẻ con rất mê, nó đong đưa sáng rực trên bầu trời,
cái dù to là nỗi cám dỗ, cuốn hút đám trẻ chạy theo giành giật, có khi bỏng cả
người.Đêm ấy cứ bập bùng ánh sáng. Tờ mờ, tôi dắt em chạy về, bên kia nhà chú S
hai anh cũng chạy về, mẹ trong nhà hốt hỏang, dáo dát ra đường tìm con, may quá
cả nhà không sao, chỉ có bức tường mới xây, chưa tô bị ngã lật, đè lên hấm trú
ẩn.
Xóm làng lại xôn xao, bàn tán : V.C
pháo kích sân bay, đốt cháy kho xăng dầu Essco. Tôi lăng xăng chạy xuống bờ
sông, nhìn quanh quất, kia rồi, nhìn xéo hướng tây nam, gần cổ viện Chàm ( bảo
tàng văn hóa Chăm ), một cột khói khổng lồ, mấy chiếc trực thăng phun bọt từ
trên cao, không dám xuống thấp vì thỉnh thỏang lửa lại bùng lên như muốn táp
lấy máy bay, khói lửa đan xen nhau bùng cháy suốt ngày hôm ấy chưa dập tắt
được. Sáng sớm hôm sau, một tóan lính Mỹ hành quân vào xóm tôi lùng sục. Họ đi
thành hàng dài súng ống lặc lè. Trước mặt nhà tôi có mấy quán cóc bán cháo, mì
quảng, bún mắm, ốc hút ( một lọai ốc xoắn có rất nhiều ở Vũng Thùng_ĐN). Chú C
gần nhà , một tay anh ,chị giang hồ có thành tích của xóm An Thị-Bến Phà, đang
cầm gói ốc hút bọc bằng lá chuối , cuốn lại thành hình cái nón ngược, thấy tụi
Mỹ đi vào làng, chú xí lô, xí là , cầm con ốc lên hút cái tọt, le lưỡi chắp
chắp ngon lành, rồi chú mời mọc đám lính ăn thử. Đám nhóc tụi tôi có dịp bu
quanh, lính Mỹ đa số còn rất trẻ, miệng nhai kẹo cao su hay hút thuốc salem,
tay kẹp súng ống, lưng giắt nhiều lựu đạn lủng lẵng, có anh vắt qua vai, hai
dây đạn vàng chóe, có anh đeo máy truyền tin (PRC25), cây ăng ten dài nghoe
ngẫy, cái ống nghe cứ tút,tút, rẹt rẹt không ngớt. Vài chú lính Mỹ cầm lấy gói
ốc, bốc đưa lên miệng, hút hút, rồi lắc đầu vì không ra được , chú C lại làm
mẫu, cầm ốc lên hút nhẹ dưới đít ốc, rồi quay lại hút mạnh, con ốc tọt vào
miệng, chú chép chép ngon lành, đám lính hưởng ứng ba bốn anh tranh nhau hút,
ốc tọt vào miệng đem theo cả ớt, sả cay xè, nước mắt nước mũi ràn rụa, bọn tôi
được một trận cười ngã nghiêng. Đó là lần đầu tiên tôi mắt thấy, tai nghe, tay
sờ đám lính Mỹ, chứ từ trước tới giờ chỉ thấy họ đội mũ phi công ngồi trên trực
thăng , ló đầu ra thập thò, hay ngồi trên xe thiết giáp, xe tăng chạy xình xịch
ngòai đường.
Mùa thu năm ấy lại một trận pháo
kích nữa nhưng mục tiêu là kho xăng dầu Liên Chiểu, sân bay Nước Mặn…xa xóm tôi
nên ít bị ảnh hưởng.Ngày xưa ấy, với suy luận của một đứa trẻ, tôi cứ nghĩ
chiến tranh vừa giống, lại vừa khác trò chơi đánh giặc giả. Giống vì người ta
cũng chia hai phe đánh nhau, nhưng cả hai phe đều là người quen, họ hàng nhau
cả, bằng chứng là: ba và chú tôi đi lính C.H, nhưng vẫn về thăm quê nội ở Điện
Ngọc, lần nào cũng vậy chỉ ở đến 3giờ chiều là vội vã quay về, vì nơi ấy “ban
ngày Quốc Gia, ban đêm Cộng Sản”, nghĩa là bên nội tôi theo phe kia ( sau này
tôi mới biết chú họ, anh em họ trong đó người theo du kích, người là đặc công),
cái giống nữa là cũng có bắn nhau, pháo kích ì xèo nhưng chẳng thấy chết ai
(???!!! ), cả xóm tôi vẫn bình yên chỉ trầy giò, rách da sơ sơ thôi (??? !!! ).
Khác nhau là súng đạn gì ghê quá, nổ kinh hòang, cháy khủng khiếp, đánh nhau gì
mà dữ dội quá, máy bay, xe tăng quần đảo cả bầu trời, mặt đất, chắc nhiều người
đổ máu, bằng chứng là máu chảy lem luốc hai bên thành, chiếc tàu cứu thương của
Tây Đức ( máu từ những chiếc trực thăng tải thương đáp xuống tàu này )!!!
Ký ức tuổi thơ của tôi là chiến
tranh, với những trận giặc gỉa và những trận pháo kích thật, nhiều năm sau tôi
cũng trực tiếp tham gia cuộc chiến ở
Campuchia, sự khốc liệt, tàn bạo của cuộc
chiến, làm tôi suy nghĩ nhiều về xóm tôi ngày ấy, tôi đọc, lắng nghe và tìm xem
những tư liệu chiến tranh để giải mã những bí ẩn, thắc mắc của tuổi thơ.Tôi dần
dần hiểu được thế nào là chiến tranh tòan dân, tòan diện, thế nào là “cài răng
lượt-da beo”. Đ.N là thủ phủ về quân sự ở miền Trung V.N, tôi đã tận mắt thấy
những vũ khí hiện đại và bộ máy quân sự khổng lồ của quân đội Mỹ và V.N.C.H.
Nhìn vào bản đồ thành phố Đ.N ngày ấy, nhà tôi ở vào vị trí “đắc địa”, nếu lấy
nhà tôi làm tâm thì trong vùng bán kính 1 km có tổng kho An Đồn, lữ đòan tăng ,
thiết giáp, sân bay trực thăng, Lãnh Sự Quán Mỹ, trong vùng bán kính 5 km có
quân cảng Tiên Sa, kho xăng dầu Essco, căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở BS, gần đó
là kho quân tiếp vụ, cư xá sĩ quan, trong vùng bán kính dưới 10 km có hệ thống
ra đa, trinh sát điện tử Sơn Trà, sân bay Đ.N, sân bay Nước Mặn…tòan là những
mục tiêu mà đối phương thèm muốn. Còn Cộng Sản ( bây giờ là phe mình đấy ) có
gì: bảy ông C.S đu cành đu đủ không gãy, không thấy xe tăng, tàu chiến, máy bay…Pháo
kích vào Đ.N ngày ấy bộ đội ta lấy đạn của tên lửa H12 (chính là tên lửa
Kachiusa của Nga Sô viện trợ, nhưng của họ lắp thành giàn, bắn hàng lọat 12
nòng), độ chế lại, gác lên chạc cây, đặt lên ván trượt thay bệ phóng, so với độ
chính xác của vũ khí Mỹ thì, H12 chế lại ,chắc chắn sẽ làm thịt băm cả xóm tôi
rồi.Lần pháo kích thứ hai của năm đó, chỉ một giờ sau máy bay Mỹ đã xuất kích,
quần đảo cả bầu trời, mặt đất, tìm kiếm, lùng sục nhưng chỉ thấy mấy cái chạc
cây, ván trượt nám khói, không chút dấu vết của pháo giàn, xe kéo… Còn những lọai pháo khác nữa và đội quân bí
mật, với bước chân rầm rập chạy qua xóm tôi ngày xưa ấy, họ chui ra từ đâu vậy.
Dần dần bí mật được giải mã, cô Bảy
T ở xóm tôi ngày ấy đã bị bắt giam âm thầm, vì cô dám mang súng ngắn, định bắn
tướng Hòang Xuân Lãm, tư lệnh vùng I chiến thuật hồi ấy, ngay trên cầu T.M.T,
khi ông này đi thị sát chiến trường qua đây. Nhà cô Bảy là căn cứ ngầm, phe ta
đội bèo (lục bình) vượt sông ,ém quân, súng đạn ở nhà cô, có một tóan quân đặc
biệt ,được bồi dưỡng tiếng Mỹ cấp tốc ở đó, anh hai tôi hồi ấy hay lên đây học
và kèm tiếng Mỹ, anh rất giỏi món này vì được học ở Hội Việt-Mỹ nhiều năm.
Trong tổng tiến công năm ấy ( 1968 ), tóan quân này đã đóng giả lính Mỹ, nửa
đêm đi thẳng vào cổng sân bay Đ.N,” làm thịt” đám lính và gài chất nổ phá máy
bay…Gần đối diện nhà cô Bảy là lãnh địa của ông Biện Dưng, một địa chủ “có máu
mặt”, con ông Biện là sĩ quan cao cấp C.H. Nhà ông bà T.T mà anh em tôi ngủ ké
,có con tập kết ra Bắc từ lâu rồi…còn nhiều những cơ sở khác nữa trong thành
phố, họ là người “đề lô”-chỉnh pháo- để mũi tên, đầu đạn tuy vô tình nhưng có
mắt, nhờ vậy mà pháo kích không biến xóm tôi–tâm bão của những mục tiêu- thành
món thịt băm. Đó chính là chiến lược cài răng lượt, da beo, ta với địch chen
vai, sát cánh bên nhau như láng giềng hữu nghị ( lô gô của hàng viện trợ Mỹ là
hai bàn tay bắt chặt lấy nhau mà )!!!